Quan phục hầu Nguyễn Trăi là công thần thứ 80-93 (
triều vua Lê Thái Tổ )
( Công thần bậc nhất có mặt từ
năm 1418, bậc nh́ 1420, bậc ba 1421, bậc thứ
tư 1422 . . . )
( Nguyễn Trăi đầu quân năm 1423, đáng
lẽ chẳng được phong hầu ! )
( Nguyễn Trăi có công lao là nhờ vào . . . ḷng nhân
của vua Lê Thái Tổ: nhà vua không muốn dụng binh . . .
)
Lê Anh Chí
__________________________________________
Dàn Bài :
I) Năm 1428,
Nguyễn Trăi được
phong làm Quan phục hầu
, do đó được xác nhận là
công thần
II) Quan phục
hầu là tước
hầu áp chót
III) Năm 1429, khắc biển
ngạch công thần, chỉ khắc thôi (công thần
đều đă được phong tước năm 1428
).
IV) Quan
phục hầu
Nguyễn Trăi là công thần thứ 80-93
V) Ba lần mộ binh lớn
đầu tiên của vua Lê Thái Tổ: năm 1420, 1421, 1422
và những đại thắng sau đó
VI) Công thần bậc nhất có
mặt từ năm 1418, bậc nh́ 1420, bậc ba 1421,
bậc thứ tư 1422 . . .
VII) Nguyễn Trăi đầu quân năm
1423, đáng lẽ chẳng được phong hầu
VIII) Nguyễn Trăi có công lao là nhờ
vào ḷng nhân của vua Lê Thái Tổ: nhà vua không muốn
dụng binh . . .
__________________________________________
NT = ông Nguyễn Trăi
TNH = ông Trần Nguyên Hăn
ĐVSKTT = Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư
I) Năm 1428,
Nguyễn Trăi được
phong làm Quan phục hầu
, do đó được xác nhận là
công thần
Sau khi b́nh định và trước
khi lên ngôi, năm
1428, Vua Lê Thái Tổ phong
thưởng cho :
_quân nhân Thiết Đột
_các công thần
Nguyễn Trăi
được phong làm Quan phục
hầu , điều này hàm ư rằng ông
được xác nhận là công thần
II) Quan phục hầu là tước hầu áp chót
Thuận Thiên năm đầu (1428),
NT được phong làm Quan phục
hầu . Đây là tước hầu áp chót.
Các tước hầu mà vua
Lê Thái Tổ phong cho
các công thần là :
1) Huyện
thượng hầu
2) Á thượng
hầu
3) Hương
thượng hầu
4) Đ́nh
thượng hầu
5) Huyện
hầu
6) Á hầu
7) Quan nội hầu
8) Quan
phục hầu
9) Trước
phục hầu
III) Năm 1429, khắc biển
ngạch công thần, chỉ khắc thôi (công thần
đều đă được phong tước năm 1428
)
Năm 1429, khắc biển ngạch
công thần, mục đích là để lưu lại tên
tuổi công thần cho hậu thế.
Các công thần đều đă
được phong tước năm 1428 nên chỉ khắc biển ngạch
thôi
IV) Quan phục hầu Nguyễn Trăi là công
thần thứ 80-93
Quan phục hầu
Nguyễn Trăi là công thần thứ 80-93 (từ công thần
thứ 80 đến công thần thứ 93)
Trong bảng biển ngạch công
thần của ĐVSKTT, Lê Trăi là công thần thứ 37.
Nhưng vị công thần thứ 37 chắc là Trần Trăi.
Bởi v́ :
1) Nghĩa quân Lam Sơn có một
người tên là Trần Trăi. Ông này đầu quân
trước NT , có thể có mặt ngay từ đầu,
có thể có dự hội thề Lũng Nhai . V́ lư do
được mang quốc tính nên hai ông Trần Trăi,
Nguyễn Trăi, đều gọi là Lê Trăi.
2) công thần thứ 37 có tước
Á Hầu. Á Hầu hơn Quan Phục Hầu hai bực, và
NT được phong làm Quan phục
hầu.
Nhắc lại, đây chỉ là
khắc bảng biển ngạch công thần, không phải
là phong thưởng. Tước của công thần
đều đă có sẵn từ năm trước,
chỉ khắc thôi.
Ta phải t́m hạng của NT trong
những người tước Quan phục hầu
.
{{ ĐVSKTT :
Á hầu
26 người là bọn
Lê Lạn, Lê Trăi. Quan
nội hầu 16
người là bọn
Lê Thiệt, Lê Chương. Quan phục hầu 16 người là bọn Lê Cuống,
Lê Dao. Thượng trí tự Trước phục hầu 4 người là bọn Lê Khắc
Phục, Lê Hài. }}
V́ trên Á
Hầu có 35 người, cho nên
_trên Quan phục
hầu là 35+26+16 = 77 người
_do đó
Lê Cuống, Lê Dao là công thần thứ 78, 79
_ông NT
giỏi lắm là công thần thứ 80 và tệ lắm là công thần thứ 93
V) Ba lần mộ binh lớn
đầu tiên của vua Lê Thái Tổ: năm 1420, 1421, 1422
và những đại thắng sau đó
Xem bài
Năm Tư (1420): chiến thắng quan trọng nhất của Vua Lê
Thái Tổ
( Từ đại thắng Thi Lang (cuối
năm1420) đến đại thắng Sách Khôi (1-1423) )
1) Cuộc mộ binh đầu tiên
của vua Lê Thái Tổ : năm 1420 và đại thắng
Thi Lang
a) Mộ binh
Trước năm 1418, vua ta chỉ
lén lút chiêu hiền đăi sĩ, chưa từng mộ binh
_v́ bị giặc Minh giám sát gắt gao. Từ khi dấy
binh, bị 5 vạn quân Minh truy sát, vua Lê Thái Tổ cũng
chẳng có cơ hội mộ binh thật sự.
Cuối năm 1419, khắp nơi trong
nước ta, nghĩa quân nổi dậy đánh quân Minh, có
những đạo nghĩa quân có lực lượng
lớn, tiến đánh cả thành Đông Đô. Giặc
Minh bận việc chinh chiến với những cuộc
nổi dậy này, nhờ thế mà trong mười tháng
đầu năm Tư (1420), Vua Lê Thái Tổ có thể mộ
binh luyện binh
Vua ta chỉ cần mộ binh 10 tháng,
đă có lực lượng đáng kể có thể khai
triển địa bàn hoạt động.
b) Đại thắng : Vua Lê Thái
Tổ phục kích và đại thắng hơn 10 vạn
quân Minh, ở Thi Lang
Đây là lần đầu tiên ta
thắng 10 vạn quân địch. 10 vạn quân là một
lực lượng rất đáng kể _ngay với
địa bàn hoạt động ở bên Tàu
_Vẫn dùng phục kích, nhưng
chiến thắng này khác hẳn : hai năm đầu,
vua ta mai phục thắng hoài, nhưng thắng rồi ,
phải lẫn trốn v́ quá ít quân (mấy trăm
quân) ; lần này quân ta truy sát địch. Quân
địch tan tác chạy dài.
Chiến thắng Thi Lang này là biến
đổi lớn, bước ngoặc trong cuộc
khởi nghĩa. Trước kia, tướng sĩ
quân lính theo vua v́ tin rằng nhà vua sẽ thành công.
Từ lúc này mọi người trong quân Lam Sơn
đều nghĩ rằng nhà vua sẽ thành công. (V́ lúc
đó đă đại thắng hơn 10 vạn quân Minh
, th́ với quân số càng ngày càng nhiều , trong
tương lai chắc chắn sẽ thành công)
c) Chính ra, vua ta chỉ có cơ hội
độc nhất này để mộ binh luyện binh và
chỉ có 10 tháng ; v́ tháng 10 năm đó (Canh Tư, 1420), Lư
Bân đă đem hơn 10 vạn binh đến đánh. Trong
khi chinh chiến với những cuộc nổi dậy, Lư
Bân thừa biết là vua ta đang mộ binh , do đó
vừa rảnh tay, hắn đă đem hơn 10 vạn binh
đến đánh _và cho rằng với quân ô hợp kia, Vua
Lê Thái Tổ chẳng thể nào chống lại.
d) Lư Bân là tướng tài, vừa
mới đánh tan tác chạy dài tất cả những
đạo nghĩa quân của dân Việt ta, nhưng khi
đánh nhau với Vua Lê Thái Tổ th́ bị thua tơi
bời hoa lá
Vua Lê Thái Tổ phục kích và
đại thắng hơn 10 vạn quân Minh của Lư Bân,
ở Thi Lang ; (Vua Lê Thái Tổ là bậc kỳ tài trong
thiên hạ, với quân ô hợp mới mộ kia đă có
thể đại thắng hơn 10 vạn quân Minh)
e) Vua ta lại thừa thắng xông
lên, thiết lập đồn binh ở Ba Lẫm, tức
là chiến tuyến ở
Lỗi Giang.
g) Cuộc mộ binh đầu tiên
của vua Lê Thái Tổ năm 1420 này là cuộc mộ binh
quan trọng nhất của ta và đại thắng Thi Lang
là chiến thắng quan trọng nhất. Nếu ta không có
đại thắng Thi Lang này, th́ Lư Bân đă tiêu diệt
được nghĩa quân Lam Sơn.
Tôi ước lượng số quân
vua dùng để đánh trận Thi Lang là 2 vạn, tổng
số quân ta lúc ấy là 2 vạn rưởi. Vua ta
để 5000 quân giữ các căn cứ
_Mường Thôi , Mường Nanh
_Lam Sơn
_Lư Sơn
_Chí Linh
2) Cuộc mộ binh năm 1421 và
đại thắng hơn 10 vạn binh Trần Trí ( hai
lần). Liền sau đó, Vua Lê Thái Tổ đại
thắng 3 vạn quân Ai Lao dù bị đánh úp th́nh ĺnh (Ai Lao
bội nghĩa đồng minh)
3) Cuộc mộ binh năm 1422 và
đại thắng Sách Khôi vào cuối năm Nhâm Dần
(đầu năm 1423).
Vua Lê Thái Tổ dùng mưu ‘‘đặt
ḿnh vào tử địa’’ đại thắng liên quân
Minh-Lào ở Sách Khôi (mưu ‘‘đặt ḿnh
vào tử địa’’ chớ chẳng phải là vua ta
vị vây khốn, như các các sử gia Việt xưa nay
hiểu lầm)
VI) Công thần bậc nhất có
mặt từ năm 1418, bậc nh́ 1420, bậc ba 1421,
bậc thứ tư 1422 . . .
Rất dễ thấy thứ bực
Công thần, trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
1) Công thần bậc nhất có
mặt từ lúc đầu khởi nghĩa (năm 1418 )
Các vơ tướng Lam Sơn phải dày
công gian khổ, anh dũng chiến đấu. Nhất là
hai năm đầu, mỗi trận đánh là cả
một tranh đấu vĩ đại : vua Lê chỉ
có mấy trăm quân lính, mà giặc Minh đem 5 vạn quân
đến đánh. Mặc dầu vua Lê mưu mẹo mai
phục thần kỳ, nhưng với số quân ít ỏi,
các tướng phải bản thân vơ nghệ cao
cường và anh dũng tuyệt luân, ở mỗi
trận đánh.
Ngoài ra, các vơ tướng theo vua từ
lúc đầu là những kẻ có khí phách anh hùng : dám
theo vua Lê, với lực lượng vỏn vẹn có
mấy trăm quân lính, để chống lại
đế quốc hùng mạnh nhất thế giới
thời bấy giờ (nhà Minh khi đó là đang hồi
cường thịnh nhất).
Công lao bậc nhất về tay các vơ
tướng Lam Sơn có mặt từ lúc đầu
khởi nghĩa (năm 1418 )
Các văn nhân như Lê Văn Linh
cũng được kể là Công thần bậc nhất
dù công lao phải nói là kém hơn các vơ tướng (Triều
vua Vua Lê Thái Tổ, các vơ tướng làm quan to hơn văn
thần th́ đúng quá rồi : họ phải chiến
đấu cực kỳ gian khổ ). Các văn nhân cũng
chứng tỏ Khí phách anh hùng: văn nhân trói gà không chặt
mà dấn thân, thật nguy hiểm hơn các vơ tướng
nhiều.
Các Công thần bậc nhất này có
công khoảng hai mươi lần nhiều hơn những
người đến đầu quân năm 1423
2) Công thần bậc nh́ có mặt
từ năm 1420 và trước đại thắng Thi Lang
_Cuộc mộ binh đầu tiên
của vua Lê Thái Tổ năm 1420 này là cuộc mộ binh
quan trọng nhất của ta ( từ số quân mấy
trăm lên số quân khoảng 2 vạn rưởi.)
_đại thắng Thi Lang là
chiến thắng quan trọng nhất (đại
thắng hơn 10 vạn quân Minh của Lư Bân).
Do v́ đại thắng Thi Lang là
chiến thắng quan trọng nhất nên những
người đầu quân trước đại thắng
Thi Lang là có công to.
Sau đại thắng Thi Lang, vua Lê
Thái Tổ tiếp tục chiến đấu với
giặc ở Lỗi Giang và tiếp tục mộ binh
luyện binh. Những chiến thắng trong hai năm
sau đó cũng rất quan trọng và do đó công thần
được xếp hạng theo thời điểm
trước các chiến thắng quan trọng này.
3) Công thần bậc ba có mặt
từ năm 1421 và trước hai lần đại
thắng Trần Trí
4) Công thần bậc thứ tư có
mặt từ năm 1422 và trước đại thắng
Sách Khôi
VII) Nguyễn Trăi đầu quân năm
1423, đáng lẽ chẳng được phong hầu
Như phần trên đă nói, 5 năm
đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn :
_2 năm đầu cực kỳ gian
khổ
_3 năm sau có 3 lần mộ binh quan
trọng nhất tương ưng với mấy
đại thắng quan trọng nhất , mỗi trận
thắng hơn 10 vạn quân Minh
Các Công thần bậc nhất
đến Công thần bậc thứ tư đă xuất
hiện , trong 5 năm đầu của cuộc khởi
nghĩa.
Nguyễn Trăi đầu quân năm
1423, năm thứ sáu, đáng lẽ chẳng
được phong hầu _v́ khó ḷng có chút công lao, cùng
dự phần vào các công thần trên.
VIII) Nguyễn Trăi có công lao là nhờ
vào ḷng nhân của vua Lê Thái Tổ: nhà vua không muốn
dụng binh . . .
Vua Lê Thái Tổ rất nhân từ, nhà
vua xem việc dụng binh là vạn bất đắc
dĩ. Đây là đặc điểm ưu việt
của vua ta. Vua Lê Thái Tổ là bậc kỳ tài
trong thiên hạ, một thiên tài quân sự có một không hai
_nhưng lại không thèm dương danh bằng chiến
công.
Vua Lê Thái Tổ không muốn dụng
binh, vua ta vây hăm thành mà không cố t́nh đánh hạ thành
(trừ thành Xương Giang). (Cụ thể là nếu
cố đánh hạ những thành kiên cố, tất
phải chết rất nhiều chiến sĩ của quân
Thiết Đột của vua).
Cho nên , vua ta sai Nguyễn Trăi viết
thư dụ hàng, trong khi tiếp tục vây hăm thành, làm quân
trong thành khốn đốn.
Cuối cùng các thành lần lượt
ra hàng (dù vua ta phải đợi cũng khá lâu)
Vua Lê Thái Tổ tuyên dương công
‘viết thư dụ hàng’ này của NT. Cho nên, NT trở
thành công thần dù đầu quân năm 1423
Cho nên,
Nguyễn
Trăi được phong hầu
Do đó, có thể nói rằng NT có công
lao là nhờ vào ḷng nhân của vua Lê Thái Tổ: nhà vua không
muốn dụng binh . . .
*
*
* Lê Anh Chí *.
_____________
Sách tham khảo
Đại
Việt Sử Kư Toàn Thư, Sử quan đời Trần
và Lê Trịnh
Đại
Việt Thông Sử, Lê Quí Đôn
Lam
Sơn Thực Lục, Nguyễn Trăi viết theo lời
kể của vua Lê Thái Tổ (bị sửa đổi)
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục, sử quan triều Nguyễn
Hoàng
Lê nhất thống chí , Ngô gia văn phái
Lịch
triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú
Việt
Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
Đông Châu Liệt Quốc
Hán Sở
Tranh Hùng
Sử
Kư , Tư Mă Thiên
Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa, La Quán Trung, dịch giả
Tử Vi Lang
Các nhà
khoa bảng Việt nam, chủ biên Ngô Đức Thọ
Việt
Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm
Tôn
Tử Binh Pháp, Tôn Tử
Ngô
Tử Binh Pháp, Ngô Khởi
Thái
Công Binh Pháp
*
*
Trang Nhà Lê Anh Chí
-----------------------------------------------
* Trang Chính * Việt
Sử, Văn Học *
Thơ *
-----------------------------------------------------------
* Mục Lục * Bài
mới LêAnhChí * Bài mới Kiến Tánh *
-----------------------------------------------------------
* Nối kết Phật Pháp * Lê
Gia * Nối kết
Văn Học *
-------------------------------------------------------